Lãnh sự danh dự nước CHXHCNVN tại Aichi
在愛知県ベトナム社会主義共和国名誉領事館
HONORARY CUNSULS OF THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM IN AICHI JAPAN

LỊCH SỬ CHỮ VIẾT VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHỮ VIẾT CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN

date_range 21-02-2022 visibility 2037
LỊCH SỬ CHỮ VIẾT VÀ SỰ HÌNH THÀNH CHỮ VIẾT CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN
 
Chữ bằng hình vẽ và chữ bằng rơm

Con người từ thời xa xưa khi chưa có chữ viết dường như đã biểu thị những điều muốn truyền đạt cho người khác hay những điều mà mình ghi nhớ sau đó bằng nhiều dấu hiệu. Chữ viết bằng rơm bày tỏ ý nghĩa bằng cắch thắt nút trên các dây rơm cũng là một trong số đó. Ngoài ra, người ta biết được ở Trung Quốc và Ai Cập khoảng 5, 6 ngàn năm trước đã sử dụng chữ bằng các hình vẽ.

 
 
Chữ Tượng Hình

Chữ bằng rơm đã bị mai một mà không phát triển, nhưng chữ bằng hình vẽ đã phát triển thành chữ tượng hình. Việc viết một cách đúng đắn, cẩn thận chữ hình vẽ từng chữ một rất là vất vả. Vì thế cho nên dần dần nó được cải tiến và trở thành những hình ảnh đơn giản hơn sau cho người ta có thể viết được một cách dễ dàng. Và cứ như vậy chữ tượng hình đã được hình thành. Ngay cả chữ tượng hình biểu thị vật giống nhau đi nữa, thì cũng có trật tự phát triển và biến đổi dần dần.


 
 
  
 
 
 
 
 
 


Chữ Kanji (Hán tự)
 
 Chữ của Trung Quốc cũng phát triển từ chữ hình vẽ thành chữ tượng hình, lại nữa từng nét từng nét họa trở nên như chữ viết và hình thành chữ Hán ngày nay.
Số chữ Hán đã chuyển đổi từ chữ hình vẽ sang chữ tượng hình có thuyết cho rằng có khoảng 25 triệu chữ, nhưng ngày nay có thể nói còn khoảng 50 ngàn chữ. Đó là bởi vì ngoài chữ tượng hình ra, người ta dần dần đã tạo ra chữ viết chủ yếu theo phương pháp sau đây:
1. Bởi vì không thể biểu thị bằng hình dáng như các chữ 「Nhất 一」「Nhị 二」「Tam 三」nên đã hiển thị nó bằng đồ hình và ký hiệu.
2. Kết hợp các chữ như 「Mộc 木」với chữ「Mộc 木」thành chữ 「Lâm 林-rừng」, và ba chữ 「Mộc 木」thành chữ 「Sâm 森-rừng rậm」.
3. Phối hợp phần 「bên tráiへん」và 「bên phảiつくり」, một mặt biểu thị ý nghĩa, mặt khắc biểu thị âm. Hầu hết chữ Hán được tạo thành từ phương pháp này.
Chữ 板(bản)gồm có 木(mộc)và 反(phản)âm là ハン.
Chữ 花(hoa)gồm có 草(thảo艹)và 化(hóa)âm là か.
Trong chữ Kanji nhiều chữ có các bộ phận hiển thị ý nghĩa của chữ đó. Chẳng hạn như trong chữ 蚕(tàm)có chứa chữ 虫(trùng), chữ蚕(tàm)biểu thị là một loại sâu.
Bộ phận của 「月」bên trong chữ 「胃」(vị)gọi là 「にくづき」, vốn bởi chữ「肉」(nhục-thịt)mà ra hiển thị chữ chỉ một bộ phận của cơ thể con người. Như chữ 「買う」(mãi)và chữ 「貯」(trữ)trong「貯金-trữ kim/tiền tiết kiệm」có gắn chữ 「貝」(bối-vỏ sò), đó là bởi ngày xưa ở Trung Quốc người ta sử dụng vỏ sò để làm tiền bạc.
Chữ Kanji được du nhập vào Nhật Bản đã gây ảnh hưởng to lớn đến văn hóa của người Nhật Bản, tuy nhiên để nhớ hết từng chữ từng chữ Kanji có hơn 50 ngàn chữ này cho dù là học cả năm cũng không thể nào nhớ hết được. Vì thế cho nên, người ta đã quyết định sử dụng 1850 chữ hán đương dụng 「当用漢字・とうようかんじ」được cho là cần thiết để viết thể hiện ngôn ngữ thông thường của Nhật Bản. Ngoài ra, trong đó cũng còn quy định những chữ Kanji bắt buộc phải nhớ cách đọc và viết trong quá trình theo học ở các trường tiểu học và trung học. Đó là 881 chữ riêng biệt khác với bảng 「当用漢字」và được gọi là chữ Kanji cưỡng bách giáo dục 「教育漢字・きょういくかんじ」.
Trong cách đọc chữ Kanji thì có On (音) và Kun (訓). ON là cách đọc được truyền từ Trung Quốc, KUN là cách đọc được ứng dụng từ ngôn ngữ cổ của người Nhật Bản. Hay nói một cách khác cùng một con vật là chó (犬khuyển) ở Nhật Bản gọi là 「いぬ」ở Trung Quốc gọi là 「ケン」do đó âm ON của chữ 「犬」biểu thị con vật đó là 「ケン」, còn âm KUN của bó đọc là 「いぬ」. Cũng có những chữ Kanji chỉ có âm ON mà không có âm KUN, cũng như cũng có chữ chỉ có âm KUN nhưng không có âm ON, tuy nhiên có nhiều chữ nhiều âm ON và âm KUN như chữ 「生-sinh」.
 
Chữ KATAKANA

Ở Nhật Bản thoạt tiên người ta chỉ sử dụng chữ Kanji để viết chữ nhưng chỉ với âm KUN của chữ Kanji thì không thể biểu hiện được một cách đầy đủ tiếng Nhật, vì thế cho nên người ta đã vay mượn âm ON của nó không có quan hệ gì đến ý nghĩa của chữ Kanji để viết thể hiện như trong Cổ Sự Kí「古事記-こじき」và Vạn Diệp Tập「万葉集-まんようしゅう」. Thí dụ: để thể hiện câu 「うめの花散る」họ sử dụng ngôn ngữ vay mượn để viết là 「宇米能波奈知流-うめのはなちる」.
Nếu cứ viết như vậy sẽ rất bất tiện và phiền toái, vì thế cho nên từ cuối thời Nara (cuối thế kỷ thứ 8) người ta tách và sử dụng một bộ phận của chữ Kanji để biểu thị âm như 「保」thành「ホ」và「利」thành「リ」. Đây là chữ KATAKANA.
 

Chữ HIRAGANA

Trái với chữ KATAKANA là lấy một bộ phận của chữ Kanji, HIRAGANA là chữ hình thành từ việc phân giải toàn bộ chữ Kanji. Nhìn hình ảnh có lẽ bạn hiểu được trình tự hình thành chữ HIRAGANA như thế nào. Chữ HIRAGANA hay chữ KATAKANA có thể nói không phải là do bất cứ ai làm ra mà là chữ được sử dụng rộng rãi trên toàn Nhật Bản. Chữ KANA có đặc trưng lớn là ở điểm nó chỉ biểu thị âm của từ và không có ý nghĩa trong bản thân chữ đó. Để thể hiện một cách đầy đủ và phong phú ngôn ngữ Nhật Bản, việc sáng tạo ra chữ HIRAGANA và KATAKANA có thể nói là một phát minh tuyệt vời đầy sáng tạo của người Nhật Bản.
Nhưng trong tiếng Nhật nếu như viết chữ「川・かわ」và「皮・かわ」; chữ「橋・はし」với「はし」bằng chữ KANA, thì có nhiều từ trùng âm giống nhau. Viết bằng chữ KANA (Hiragana&Katakana) chữ「かわ」sẽ khó phân biệt một cách rõ ràng giữa 「みかんの皮」- vỏ cam hay 「川」là dòng sông, nhưng nếu viết nó bằng chữ Kanji ta sẽ biết ngay ý nghĩa của nó.
Chữ Kanji hay chữ KANA đều có sở trường và sở đoản của nó cho nên hiện nay người ta sử dụng phối hợp cả hai.

 

 
Chữ ROMAZI (La Mã Tự)

Chữ Romazi là chữ được sử dụng rộng rải ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Anh, Pháp v.v. Có thể nói nó cũng được hình thành và phát triển lần đầu tiên từ chữ hình vẽ như chữ Kanji.
Cũng giống như Việt Nam, ở Nhật Bản vào cuối thời Muromachi (cuối thế kỷ 16), các giáo sỹ người Bồ Đào Nha đã sử dụng Romazi để biểu thị tiếng Nhật. Sau Minh Trị (1913) cùng với việc giao lưu với nước ngoài trở nên thịnh hành, chữ Romazi đã phát triển và phổ biến một cách nhanh chóng, người ta có thể dễ dàng nhìn thấy các bảng hiệu ở cửa hàng và nhà ga có ghi chữ Romazi.
Cũng giống như chữ KANA, chữ Romazi là chữ biểu thị âm, nó không biểu thị ý nghĩa như chữ Kanji. Ngoài ra cách biểu thị âm của nó cũng chi tiết hơn là chữ KANA, và cách ghép âm cũng dễ hiểu hơn. Tuy nhiên cách đọc chữ Romazi tùy quốc gia mà có sự khác biệt, Mỹ thì có cách phát âm hệ Mỹ, Pháp có lối phát âm của Pháp, khắp thế giới không có cách đọc giống nhau. Đó cũng là một trong những lý do mà phong trào cổ súy sử dụng Romazi của một số học giả Nhật Bản vào đầu thế kỷ 19 thất bại. Chữ Kanji từng chữ từng chữ có ý nghĩa nên gọi là chữ biểu ý, còn chữ Kana và Romazi chỉ biểu thị âm nên được gọi là chữ biểu âm.

Nguyễn Minh Nghĩa
 
0903 840 195