VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ HỌC THUYẾT KEYNES
Vấn đề kinh tế và Học thuyết kinh tế Keynes
Nhật Bản sau khi thua trận và được đặt dưới sự bảo trợ của Mỹ. Mặc dù là nói vậy, nhưng không một người Nhật nào mà không biết Nhật Bản thời bấy giờ đặt dưới quyền thống trị của tướng Douglas MacArthur(1880 – 1964) là tư lệnh tối cao của quân đồng minh.
MacArthur vốn là người duy trì học thuyết Kinh tế học Keynes của John Maynard Keynes (1883-1948) chủ trương nguyên lý nhu cầu hữu hiệu, vì thế ông ta muốn thử ứng dụng nó vào Nhật Bản lúc bấy giờ rất lạc hậu. Kết quả là Nhật Bản đã tăng trưởng kinh tế cao độ.
Mặc dù nói là nền kinh tế Keynes, nhưng có lẽ nó cũng chẳng quen thuộc gì với các doanh nghiệp Nhật ngày nay, tuy nhiên đó là một nhà kinh tế đã đặt nền móng cho đất nước Nhật Bản.
Đặc trưng của nền kinh tế học Keynes là tỷ lệ thất nghiệp sẽ gia tăng khi mà kinh tế suy thoái, vì thế nhà nước cũng không cần thu thuế.
Vì thế thông thường nhà nước tăng tiền thuế và có gia tăng thu thuế vào, nhưng tư tưởng của Keynes thì ngược lại.
Khi mà nền kinh tế suy thoái, nhà nước sẽ sử dụng ngân sách, tạo nên các công việc công cộng, thuê người lao động và trả lương cho họ.
Đương nhiên ngân sách sẽ giảm và nhà nước sẽ nghèo đi, nhưng nhân dân thì lại gia tăng tiêu dùng thuận lợi và vì thế mà nền kinh tế phục hồi. Có nghĩa là lấy các công trình công cộng làm mồi nước.
Thời bấy giờ không có nhiều ngành nghề phức tạp và đa dạng như hiện nay nên việc làm này sẽ thành công tốt đẹp.
Thí dụ như cơ thể con người, nếu như truyền dịch vào trong một cơ thể đơn giản thì chất dinh dưỡng sẽ đi khắp toàn thân, nhưng nếu là một cơ thể phức tạp thì cho dù có truyền dịch cũng không thể đi khắp toàn thân vậy. Cũng xảy ra tình trạng các đồng nghiệp lưu trữ tiền tệ bên trong nội bộ. Khi truyền dịch vào cánh tay thì chỉ cánh tay béo lên. Ngoài ra Keynes nói về thuế lũy tiến, đặc trưng sử dụng phương pháp thu nhiều tiền từ những người có thu nhập cao, và ưu đãi tầng lớp thu nhập thấp không thu nhiều. Chính vì thế mà Nhật Bản so với Mỹ cách biệt giàu nghèo ít, và là một nước mà lớp thu nhập trung bình đông đúc.
Nguyễn Minh Nghĩa
Nhật Bản sau khi thua trận và được đặt dưới sự bảo trợ của Mỹ. Mặc dù là nói vậy, nhưng không một người Nhật nào mà không biết Nhật Bản thời bấy giờ đặt dưới quyền thống trị của tướng Douglas MacArthur(1880 – 1964) là tư lệnh tối cao của quân đồng minh.
MacArthur vốn là người duy trì học thuyết Kinh tế học Keynes của John Maynard Keynes (1883-1948) chủ trương nguyên lý nhu cầu hữu hiệu, vì thế ông ta muốn thử ứng dụng nó vào Nhật Bản lúc bấy giờ rất lạc hậu. Kết quả là Nhật Bản đã tăng trưởng kinh tế cao độ.
Mặc dù nói là nền kinh tế Keynes, nhưng có lẽ nó cũng chẳng quen thuộc gì với các doanh nghiệp Nhật ngày nay, tuy nhiên đó là một nhà kinh tế đã đặt nền móng cho đất nước Nhật Bản.
Đặc trưng của nền kinh tế học Keynes là tỷ lệ thất nghiệp sẽ gia tăng khi mà kinh tế suy thoái, vì thế nhà nước cũng không cần thu thuế.
Vì thế thông thường nhà nước tăng tiền thuế và có gia tăng thu thuế vào, nhưng tư tưởng của Keynes thì ngược lại.
Khi mà nền kinh tế suy thoái, nhà nước sẽ sử dụng ngân sách, tạo nên các công việc công cộng, thuê người lao động và trả lương cho họ.
Đương nhiên ngân sách sẽ giảm và nhà nước sẽ nghèo đi, nhưng nhân dân thì lại gia tăng tiêu dùng thuận lợi và vì thế mà nền kinh tế phục hồi. Có nghĩa là lấy các công trình công cộng làm mồi nước.
Thời bấy giờ không có nhiều ngành nghề phức tạp và đa dạng như hiện nay nên việc làm này sẽ thành công tốt đẹp.
Thí dụ như cơ thể con người, nếu như truyền dịch vào trong một cơ thể đơn giản thì chất dinh dưỡng sẽ đi khắp toàn thân, nhưng nếu là một cơ thể phức tạp thì cho dù có truyền dịch cũng không thể đi khắp toàn thân vậy. Cũng xảy ra tình trạng các đồng nghiệp lưu trữ tiền tệ bên trong nội bộ. Khi truyền dịch vào cánh tay thì chỉ cánh tay béo lên. Ngoài ra Keynes nói về thuế lũy tiến, đặc trưng sử dụng phương pháp thu nhiều tiền từ những người có thu nhập cao, và ưu đãi tầng lớp thu nhập thấp không thu nhiều. Chính vì thế mà Nhật Bản so với Mỹ cách biệt giàu nghèo ít, và là một nước mà lớp thu nhập trung bình đông đúc.
Nguyễn Minh Nghĩa










